Bài đăng

Hình ảnh
Đa dạng thành phần loài cá ở vùng cửa sông Cổ Chiên, tỉnh Bến Tre Dựa trên kết quả định loại các mẫu cá thu được vào ba đợt khảo sát của tiểu dự án “Điều tra tổng thể đa dạng sinh học các hệ sinh thái cửa sông Việt Nam” trong năm 2011, 2012 và 2015 tại vùng cửa sông Cổ Chiên, tỉnh Bến Tre, đã xác định được 142 loài thuộc 45 họ, 11 bộ của 2 lớp cá. Trong đó, bộ cá Vược (Perciformes) chiếm ưu thế với 70 loài (chiếm 49,3%); tiếp đến là bộ cá Bơn (Pleuronectiformes) với 21 loài (chiếm 14,79%). Có 1 bộ chỉ có 1 họ với 1 loài là bộ cá Tuyết (Gadiformes). Theo các nhóm sinh thái, nhóm cá đáy chiếm ưu thế với 117 loài (chiếm 82,4%), nhóm cá nổi có 25 loài (chiếm 17,6%); nhóm cá nước lợ ưu thế hơn với 101 loài (chiếm 71,1%), nhóm cá biển có 39 loài (chiếm 27,5%) và nhóm cá nước ngọt chỉ có 2 loài (chiếm 1,4%). Nghiên cứu cũng đã xác định được 52 loài cá (chiếm 36,62%) có giá trị kinh tế cao, 1 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam 2007 ở mức VU và 3 loài được phân hạng NT trong Danh lụ
Hình ảnh
Nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam tại huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình Vùng trồng cam tại huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình đang ngày càng phát triển nhanh cả về diện tích, năng suất, sản lượng và thương hiệu. Nghiên cứu này đã tiến hành đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam theo phương thức thâm canh truyền thống và theo VietGAP để làm cơ sở cho việc phát triển bền vững cây cam ở Cao Phong. Nghiên cứu đã sử dụng hai phương pháp là đánh giá nhanh môi trường và phân tích chi phí lợi ích. Kết quả đã chỉ rõ mỗi hecta trồng cam đã tạo ra được việc làm cho 2 lao động với mức thu nhập là 62,5 triệu đồng/người/năm; năng suất đã tăng đáng kể nhờ áp dụng thâm canh, đạt trung bình 35tấn/ha/năm, cao nhất đến 50 tấn/ha/năm. Năm 2015, lợi nhuận trung bình của các vườn đạt trên 500 triệu đồng/ha/năm. Canh tác theo mô hình VietGAP đang được đẩy mạnh, giúp giảm chi phí hóa chất, duy trì năng suất ổn định ở mức cao và chu kỳ khai thác kinh doanh tăng gấp hai lần p
Hình ảnh
Dynamic Modeling and Control of a Flexible Link Manipulators with Translational and Rotational Joints  Flexible link manipulators are widely used in many areas such the space technology, medical, defense and automation industries. They are more realistic than their rigid counterparts in many practical conditions. Most of the investigations have been confined to manipulators with only rotational joint. Combining such systems with translational joints enables these manipulators more flexibility and more applications. In this paper, a nonlinear dynamic modeling and control of flexible link manipulator with rigid translational and rotational joints is presented. This model TR (Translational-Rotational) is developed based on single flexible link manipulator with only rotational joint. Finite element method and Lagrange approach are used to model and build equations of the motion. PID controller is designed with parameters (Kp, Ki, Kd) which are optimized by using Particle Swa
Hình ảnh
Establishment of a Detecting Procedure and Analysis of CEBPA-TAD Genetic Mutation in Vietnamese Acute Myeloid Leukemia Patients Acute myeloid leukemia (AML) is caused by mutations leading to the loss of control over the proliferation and differentiation of leukocytes in the bone marrow. In Vietnam, studies focusing on the statistics, types, rate and molecular characteristics of common genetic mutations in AML patients are still limited. Identification of chromosomal mutation using the standard karyotyping techniques has assisted effectively AML diagnosis, however, in approximate 45% of AML cases, karyotyping analysis show normal cytogenesis due to abnormalities occurring at the molecular level.In this study, we focused on the establishment of a procedureto detect CCATT-enhancer binding protein α mutations in Transactivation domain region (CEBPA-TAD), which are considered poor prognostic factor for treatment. Using this procedure, one sample carrying a 17-nucleotide delet
Hình ảnh
Văn học dân gian vùng ven Hồ Tây trong không gian du lịch văn hoá: Luận văn ThS. Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: 602201 Authors:  Vũ, Thị Hải Vân Luận văn nghiên cứu về văn học dân gian vùng ven Hồ Tây trong không gian du lịch văn hoá, là một hướng nghiên cứu folklore ứng dụng. - Thống kê số lượng các tác phẩm còn lưu truyền đến ngày nay về vùng ven Hồ Tây ở các loại hình: truyện kể dân gian, trữ tình dân gian và tục ngữ - câu đố dựa trên kho tàng văn học và nghệ thuật dân gian. - Luận văn chỉ ra được mối quan hệ hai chiều của văn học và văn hoá dân gian với du lịch và du lịch văn hoá, từ đó đánh giá đúng vị trí và vai trò của vùng văn hoá Hồ Tây, góp phần bảo tồn những giá trị truyền thống của vùng ven Hồ Tây... Chi tiết bài viết mời các bạn tham khảo tại đường link: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/60922
Hình ảnh
Ảnh hưởng hàm lượng khoáng talc và khả năng tương tác pha đến tính chất cơ lý và độ dẫn nhiệt của vật liêu compozit trên cơ sở polypropylen Authors:  Nguyễn, Việt Dũng Ngô, Kế Thế Nguyễn, Văn Thủy Nguyễn, Thị Ngọc Tú Trần, Thu Trang Phạm, Thị Lánh Tính chất cơlý và độdẫn nhiệt của vật liệu compozit trên cơsởnhựa nhiệt dẻo polypropylen với chất độn khoáng talc (với các hàm lượng 10%, 30% và 50% khối lượng) đã được nghiên cứu. Bên cạnh khoáng talc ban đầu, ảnh hưởng của hai loại hợp chất biến đổi bềmặt chất độn bao gồm aminopropyltrietoxysilan và vinyltrimetoxysilan cũng đã được xác định. Kết quảcho thấy rằng, quá trình biến đổi bềmặt giúp cho các hạt chất độn phân bố đồng đều hơn, hạn chếcác lỗ trống xuất hiện giữa bề mặt chất độn và chất nền. Mô đun đàn hồi của vật liệu tăng đơn điệu theo hàm lượng chất độn. Chất độn khoáng talc gia tăng độbền kéo đứt của vật liệu và đạt giá trịlớn nhất ở hàm lượng 30% (đạt giá trị38,36 Mpa), trong khi độ giãn dài khi đứt giảm mạnh
Hình ảnh
Cấu trúc không - thời gian của nhiệt độ và lượng mưa tháng ở Việt Nam trong các thập kỷ gần đây và thử nghiệm dự báo : Luận văn ThS. Khoa học khí quyển và khí tượng: 60 44 87 Authors:  Phan, Văn Tân, người hướng dẫn Đỗ, Văn Mẫn, 1978- Tuy lãnh thổ Việt Nam nằm trọn trong vùng nhiệt đới nhưng khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng khí hậu riêng biệt theo phân loại khí hậu Köppen với miền Bắc và Bắc Trung Bộ là khí hậu cận nhiệt đới ẩm . Miền Bắc gồm 4 mùa: Xuân Hạ Thu và Đông. miền Trung và Nam Trung bộ là khí hậu nhiệt đới gió mùa , miền cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ mang đặc điểm nhiệt đới xavan . Đồng thời, do nằm ở rìa phía Đông Nam của phần châu Á lục địa, giáp với biển Đông (một phần của Thái Bình Dương ), nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của kiểu khí hậu gió mùa mậu dịch, thường thổi ở các vùng vĩ độ thấp. Miền Nam thường có 2 mùa : mùa mưa và mùa khô. Cần phân biệt vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới, vùng khí hậu ôn đới có 4 mùa, Xuân, Hạ, Thu, Đông còn vùng khí hậu nhiệt